Tóm tắt nội dung: Giao dịch trên thị trường vàng trong nước hiện nay là mua - bán kinh doanh vàng vật chất và huy động dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá, cho vay vàng chế tác, kinh doanh trang sức. Các giao dịch diễn ra đơn lẻ, không có sàn giao dịch tập trung. Trước đó, kinh doanh vàng qua tài khoản cũng diễn ra rất sôi động với mức ký quĩ thấp (7%) trên các sàn giao dịch đơn lẻ trong nước, do một số ngân hàng, công ty/tổ chức kinh doanh vàng thành lập, quản lý; một số NHTM cũng được kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài. Trong bối cảnh giá vàng thế giới vẫn tiềm ẩn các biến động lên xuống khó lường, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải cải tổ việc quản lý vàng và phát triển thị trường vàng. Theo đó, vàng với hàm lượng vàng cao nên được quản lý với tính chất của một công cụ tiền tệ. Nhà nước cần phải nắm quyền và có các công cụ hữu hiệu để điều chỉnh cung - cầu vàng, chủ động quản lý có hiệu quả, hiệu lực tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Bên cạnh việc quản lý vàng với tính chất của một công cụ tiền tệ, cần có lộ trình cụ thể cho việc phát triển thị trường vàng theo thông lệ quốc tế, đa dạng hoá các kênh đầu tư, liên thông thị trường trong nước và quốc tế... Để biết thêm chi tiết mời xem bài viết.
Tóm tắt nội dung: Sự phát triển của các chế độ tiền tệ khiến cho đồng tiền càng trở nên thuận tiện hơn, phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn kinh doanh và đời sống xã hội, đồng thời cũng càng tạo điều kiện làm tăng khả năng tách rời giữa sức mua thực tế của nó với sức mua danh nghĩa, nhất là khi tiền tệ hiện đại thoát ly hoàn toàn khỏi chế độ bản vị kim loại, đặc biệt là bản vị vàng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mọi sự tăng - giảm giá các đồng tiền dù ở bất kỳ quốc gia nào, trực tiếp hay gián tiếp, công khai hoặc ngầm, cũng ít nhiều lấy vàng làm thước đo - bản vị chung... Vì vậy, bất chấp sự phát triển các hình thái của tiền tệ hiện đại ra sao, thì cho đến nay và cả trong tương lai thế giới (kể cả nhà nước, doanh nhân và người dân) cũng đã, đang và sẽ vẫn tiếp tục coi vàng là đồng tiền quốc gia và quốc tế thực hiện 2 chức năng chủ yếu là công cụ dự trữ và thanh toán đáng tin cậy nhất, đặc biệt trong bối cảnh có những biến động kinh tế - chính trị - xã hội phức tạp và khó lường, nhất là khi có lạm phát cao. Cũng vì vậy, kể từ khi xuất hiện trên thị trường đến nay, vàng luôn là đối tượng mua - bán đặc biệt, mà dung lượng thị trường cung và cầu đều không ngừng gia tăng, bất chấp sự trồi sụt của các thị trường hàng hóa và dịch vụ thông thường khác, cũng như bất chấp sự thăng trầm của các vương triều và thể chế chính phủ. Thậm chí, ở khía cạnh và mức độ nào đó, sự gia tăng giá trị, tư tưởng sùng bái và quy mô các giao dịch vàng trên thị trường còn là thước đo và uy tín, lòng tin và trạng thái kinh tế của đất nước và thế giới. Để biết thêm chi tiết xin mời xem bài viết.
Tóm tắt nội dung: Trong 10 năm gần đây (2001-2010), đồng USD liên tục mất giá, là nguyên nhân chính làm giá vàng tăng, song mức tăng giá thực tế của vàng lớn hơn nhiều so với mức mất giá của đồng USD. Chỉ số đồng USD trước ngày 9/11/2001 là 121,02 điểm, đến tháng 11/2010 là 75,63 điểm, tính chung tỷ giá đồng USD sau 10 năm mất giá 37,5%. Giá vàng ở mức thấp nhất năm 2001 là 253,55 USD/oz, giá vàng cao nhất vào tháng 12/2010 là 1.430,55 U SD/oz, giá vàng sau 10 năm tăng 464,2%. Đến nay, giá vàng giao ngay trên thị trường châu á vẫn duy trì ở mức cao, ngày 31/3/2011 ở mức 1.423 USD/oz. Các đỉnh cao của giá vàng luôn bị phá, năm 2008 là 900 USD/oz, năm 2009 là 1.000 USD/oz, năm 2010 là 1.400 USD/oz. Vậy nguyên nhân nào làm cho giá vàng thế giới tăng đột biến? Vì sao trong thời gian qua, giá vàng trong nước lại đi ngược chiều với giá vàng thế giới? Và làm thế nào để sử dụng hiệu quả nguồn vàng hiện đang cất giữ trong dân ước tính khoảng 500 tấn vàng, tương đương khoảng trên 22 tỷ USD, đây là nguồn vốn vô cùng quý giá đang nằm trong dân để phát triển kinh tế đang là vấn đề lớn được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, nghiên cứu, mong muốn tìm ra các biện pháp khả thi, hiến kế cho Chính phủ... để biết thêm chi tiết mời xem bài viết.
Tóm tắt nội dung: Để thực hiện Nghị quyết của Chính phủ, ngày 1/3/2011, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 01 về những giải pháp về chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Một trong những giải pháp đó là: kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng; theo dõi và dự báo sát tình hình biến động giá vàng quốc tế, cung - cầu trong nước, chọn một số doanh nghiệp làm đầu mối nhập khẩu vàng, điều tiết và ổn định giá vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do; phối hợp với các bộ, ngành liên quan và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh kiểm tra, xử lý các trường hợp đầu cơ, găm giữ, kinh doanh trái pháp luật vàng, ngoại tệ làm rối loạn thị trường; trong quý II/2011 trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý và kinh doanh vàng. Cho dù còn nhiều bàn luận với những ý kiến trái ngược nhau, nhưng chủ trương của Chính phủ thể hiện trong Nghị quyết 11 ngày 24/2/2011 quản lý thị trường vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu, tiến tới xóa bỏ kinh doanh vàng miếng, bắt đầu phát huy tác dụng. Việc cởi nút thắt vàng sẽ là một trong những bước đi cơ bản để ổn định tỷ giá. Theo nhận xét của các phương tiện thông tin đại chúng, người dân tỏ ra bình tĩnh và thị trường khá yên lặng, không có hiện tượng người dân đổ xô đi mua vàng để cất giữ. Một số ngân hàng cho biết đã có khách hàng gửi vàng đáo hạn đã chuyển sang tiền đồng gửi tiết kiệm khi lãi suất tiền đồng đang cao. Ngay cả khi giá vàng quốc tế lập kỷ lục mới, người dân cũng không chạy đi mua vàng. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tán thành với chủ trương và yêu cầu kiên quyết thực hiện tốt việc quản lý thị trường ngoại hối, thị trường vàng của NHNN. Theo Thủ tướng, việc quản lý thị trường đô la và vàng có tính nhạy cảm cao nên cần có lộ trình phù hợp theo kinh tế thị trường, bảo đảm lợi ích của người dân và doanh nghiệp, góp phần bảo đảm và ổn định kinh tế vĩ mô... để biết thêm chi tiết mời xem bài viết .
Tóm tắt nội dung: Tại sao các nước trong khu vực và các quốc gia tiên tiến trên thế giới có mức lãi suất huy động và cho vay cực thấp, thấp hơn nhiều lần so với nước ta? Một trong những nguyên nhân chính là họ có hệ thống chính sách quản lý dòng tiền nhàn rỗi trong dân cư rất hữu hiệu, họ không cho dòng tiền nhàn rỗi chạy lung tung mà đều hướng dòng tiền này chảy vào hệ thống ngân hàng và một phần vào thị trường chứng khoán. Dòng tiền nhàn rỗi của các nước trên không thể đầu tư vàng miếng vì bị ngăn cản và không sinh lợi, càng không thể đầu cơ tích trữ ngoại tệ như ở ta. Còn đối với thị trường bất động sản, hầu hết chính phủ các nước đều có Luật thuế tài sản đánh thuế lũy tiến vào việc sở hữu bất động sản, vì vậy người đầu tư khó lòng tích trữ đất hay đầu tư đất vì không sinh lợi, ngược lại có thể bị lỗ nặng do phải chịu thuế tài sản cao. Việc tăng cường siết chặt thị trường ngoại tệ chợ đen ở nước ta trong thời gian qua đã có nhiều hiệu quả. Dòng tiền nhàn rỗi sẽ bị chặn ở đầu tư tích trữ vàng, ngoại tệ nhưng bất động sản vì chính sách thuế hiện hành là rất thấp. Trong tương lai nếu chúng ta không thiết lập thuế tài sản trong kinh doanh và sở hữu đất đai thì bất động sản sẽ là nơi đến lý tưởng của dòng tiền nhàn rỗi và như vậy chúng ta chưa thể quản lý tốt dòng tiền nhàn rỗi và sẽ đẻ ra nhiều bất cập xã hội về vấn đề này. Ngoài những biện pháp như trên để quản lý thị trường tiền tệ, chúng ta cần làm tốt hơn chính sách tài khóa, các chính sách kinh tế vĩ mô…để đảm bảo nền kinh tế và các yếu tố vĩ mô được ổn định... để biết thêm chi tiết mời xem bài viết .
Tóm tắt nội dung: Mặc dù thời gian triển khai thực hiện nghị quyết 11 của Chính phủ và Chỉ thị 01 của NHTW trong giai đoạn bước đầu, song hiệu ứng tác động của Nghị quyết và Chỉ thị của NHTW đối với nền kinh tế nói chung và thị trường tiền tệ, hoạt động ngân hàng trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh nói riêng đã phản ánh những dấu hiệu tích cực: thị trường ổn định hơn, các yếu tố tỷ giá, lãi suất, vàng ít biến động hơn... để biết thêm chi tiết mời xem bài viết.
Tóm tắt nội dung: Ngày 21/3/2011, Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố báo cáo cập nhật về tình hình và triển vọng kinh tế của khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam. WB nhận định, nền kinh tế Việt Nam trong năm 2011 tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức có thể làm chậm tốc độ tăng trưởng. Tuy nhiên, với những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc đưa ra các giải pháp chính sách đồng bộ nhằm cải tổ và ổn định kinh tế vĩ mô, WB tin tưởng vào triển vọng tăng trưởng ổn định của Việt Nam trong trung và dài hạn.
Tóm tắt nội dung: Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, các biến động của thị trường thế giới có tác động rất nhanh, mạnh đến thị trường trong nước. Vì vậy, để có thể vượt qua những khó khăn, thách thức và phát triển bền vững, bên cạnh việc xây dựng một cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng hợp lý, chúng ta cần phải có một năng lực dự báo tốt kết hợp với khả năng phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả để nâng cao sức đề kháng của nền kinh tế trước những "cú sốc" từ bên ngoài.
Tóm tắt nội dung: Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế và xuất nhập khẩu của Việt Nam, làm cho xuất khẩu giảm khoảng 20% và nhập siêu tăng 25% - theo đó là sự biến động tiêu cực của thị trường tài chính thông qua sự tăng vọt của lãi suất tín dụng và biến động tỷ giá... Đến năm 2010, xuất khẩu tăng cao gấp 3 lần chỉ tiêu kế hoạch, tăng 19,5%, tỷ lệ nhập siêu giảm, bằng 16,45% tổng kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ nhập siêu thấp nhất trong nhiều năm qua, giảm bớt thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế, đề phòng rủi ro... Như vậy, Việt Nam cũng như các nước khác chịu áp lực rất lớn của suy thoái toàn cầu. Kinh tế tăng trưởng cao nhưng bất ổn, vẫn thiếu nền tảng vững chắc, tiềm lực nội sinh vẫn còn sức sống mãnh liệt và đang có cơ hội phục hồi và phát triển nhanh chóng.
Tóm tắt nội dung: Để chống suy thoái kinh tế, Chính phủ đã thực thi nhiều chính sách và điều này đã được đánh giá tác động tài khóa đối với nền kinh tế trong bài viết "Đánh giá hiệu quả của chính scáh kích cầu chống suy giảm kinh tế ở Việt Nam" đăng trong tạp chí Ngân hàng số 24, tháng 12/2009. Trong bài viết này, tác giả tiếp tục đánh giá những thành tựu, hạn chế mà ngành ngân hàng đã thực hiện để chống suy giảm kinh tế ở Việt Nam. Từ đó, rút ra một số gợi ý chính sách cho việc giảm thiểu tác động của các ảnh hưởng từ suy thoái kinh tế thế giới vốn diễn ra theo chu kỳ kinh doanh một cách chủ động hơn, có lựa chọn hơn.
Tóm tắt nội dung: Qua thực tiễn các vụ tranh chấp cho thấy, đa số tranh chấp về nghĩa vụ trả nợ không gay gắt như tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm (TSBĐ). Xác lập giao dịch bảo đảm (DGBĐ) là giải pháp thu nợ dự phòng - phòng ngừa rủi ro, tuy nhiên, khi xác lập DGBĐ nhiều nội dung phải dự liệu lại chưa được các tổ chức tín dụng (TCTD) quan tâm để thỏa thuận hoặc có nhưng kỹ thuật đưa vào hợp đồng tín dụng (HĐTD), hợp đồng bảo đảm (HĐBĐ) lại chưa biểu đạt đúng và đủ yêu cầu. Điều đó, đã làm giảm ý nghĩa thực tế của biện pháp bảo đảm tiền vay, khi xảy ra tranh chấp quyền và lợi ích của TCTD thiếu cơ sở để bảo vệ. Có rất nhiều nội dung cần phải lưu ý để hoàn thiện, bài viết này đề cập một số vấn đề tuy nhỏ và tản mạn nhưng thực tiễn cho thấy, các TCTD thường lại chưa có sự lưu ý đúng mức.
Tóm tắt nội dung: Trong một số năm gần đây, thực hiện các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo cam kết gia nhập WTO, đồng thời trước những diễn biến phức tạp của thị trường tài chính trong và ngoài nước, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp nhà ở của Mỹ, xảy ra từ nửa cuối năm 2008, khủng hoảng nợ ở một số nước châu Âu, biến động lạm phát, lãi suất, tỷ giá trong nước, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam đã hoàn thiện, bổ sung , ban hành mới nhiều quy định về tỷ lệ an toàn của ngân hàng thương mại (NHTM). Những quy định đó, nhìn chung, là phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ tài chính của nước ta; đồng thời, tăng cường quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng, nâng cao năng lực tài chính nói riêng, năng lực cạnh tranh nói chung và nâng cao uy tín của các ngân hàng thương mại ở nước ta.
Tóm tắt nội dung: Bao thanh toán có từ rất lâu đời, song thực chất nó chỉ phát triển mạnh từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến nay. Sau này bao thanh toán mới phát triển mạnh là vì sau thế chiến thứ 2, nhiều nước trên thế giới lâm vào kiệt quệ, khủng hoảng và suy thoái kinh tế, nhất là các quốc gia tham chiến trừ Mỹ. Các doanh nghiệp của các quốc gia này rơi vào tình trạng khó khăn tài chính nghiêm trọng. Để phục hồi và mở rộng sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp khi mua bán với nhau phải dùng đến phương thức thanh toán trả sau. Tuy nhiên, khi sử dụng phương thức này, doanh nghiệp lại phát sinh thêm chi phí quản lý nợ. Trong trường hợp người bán cũng thiếu vốn để tài trợ cho sản xuất kinh doanh của mình buộc người bán phải bán lại khoản nợ để nhanh chóng có vốn phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó, tình trạng nợ khó đòi cũng là một vấn đề nhức nhối đối với nhiều doanh nghiệp bán hàng. Do bao thanh toán ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu về tài trợ vốn và quản lý, thu hồi các khoản nợ giúp doanh nghiệp, hỗ trợ cho doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả hơn.
Tóm tắt nội dung: Trong kinh doanh ngân hàng thì rủi ro như một người bạn đồng hành cùng các ngân hàng. Rủi ro của các ngân hàng có rất nhiều loại khác nhua như rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng (RRTD), rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động,... Nhưng có thể nói, RRTD là biểu hiện tập trung nhất cho sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro. Bên canh đó, hiện nay, nguồn thu nhập từ tín dụngvẫn là nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Trong hoạt động quản trị rủi ro có 4 bước cơ bản đó là: Nhận dạng, đo lường, kiểm soát và tài trợ rủi ro, thì bước cuối cùng có nội dung chủ yếu là, khi rủi ro đã xảy ra thì ngân hàng phải có những giải pháp để xử lý những tác động mà rủi ro gây nên. Điều này cũng dễ hiểu, vì dù có sử dụng những biện pháp nào đi chăng nữa thì ngân hàng khó có thể loại trừ hoàn toàn rủi ro. Bài báo xin trình bày các phương pháp dự phòng trong hoạt động ngân hàng.
Tóm tắt nội dung: Năm 2008, chịu sự tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam đứng trước nhiều khó khăn: lãi suất biến động mạnh, lạm phát tăng cao, thị trường chứng khoán (TTCK) sụt giảm đã làm cho các nhà đầu tư thua lỗ vì không có những công cụ tài chính nhằm phòng ngừa rủi ro. Quyền chọn - một trong những công cụ phòng chống rủi ro hữu hiệu đã xuất hiện từ đầu thế kỷ 18 và phát triển mạnh mẽ từ năm 1973 khi Sở giao dịch quyền chọn Chicago (CBOE) được thành lập. Như vậy, đẫ đến lúc cần nghiên cứu ứng dụng công cụ quyền chọn cổ phiếu trên TTCK Việt Nam. Trải qua gần 11 năm hoạt động và phát triển, TTCK đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, dù phát triển khá nhanh, nhưng TTCK cũng có những dấu hiệu đáng lo ngại khi giá cổ phiếu tăng, giảm đột biến được thể hiện qua chỉ số VN-Index. Tất cả những biến động về giá trên TTCK sẽ gây ra rủi ro rất to lớn cho các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân. Do đó, nhà đầu tư phải nhận diện ra những rủi ro là điều hết sức cần thiết.
Tóm tắt nội dung: Nghiên cứu này xuất phát từ thực tế những khó khăn trong tiếp cận nguồn tín dụng chính thức của hộ nghèo trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Thông qua số liệu điều tra 254 hộ nghèo và áp dụng mô hình phân tích hồi quy logistic cho thấy, khả năng tiếp cận nguồn tín dụng chính thức của hộ nghèo chịu tác động bởi các nhân tố: tuổi thọ của chủ hộ, số lao động trong hộ, trình độ học vấn, tham gia hội đoàn thể, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tổng thu nhập của hộ, tổng giá trị tài sản của hộ. Trong đó, nhân tố sổ đỏ và tham gia hội đoàn thể có tác động mạnh nhất đến khả năng tiếp cận tín dụng chính thức của hộ nghèo.
Tóm tắt nội dung: Theo báo cáo "Triển vọng kinh tế thế giới" của IMF, kinh tế thế giới sẽ tiếp tục phục hồi sau khủng hoảng nhưng tốc độ tăng trưởng sẽ không đồng đều giữa các nhóm nước. Các nền kinh tế phát triển vẫn tiếp tục phục hồi và tăng trưởng, nhưng thất nghiệp vẫn cao. Hầu hết các nền kinh tế đang phát triển sẽ tăng trưởng mạnh. Kinh tế thế giới được dự báo tăng trưởng 4,4% trong năm 2011. Tuy nhiên, để đảm bảo phục hồi vững chắc, cần có các chính sách phục hồi để giải quyết vấn đề nợ công và tài khóa của khu vực đồng tiền chung châu Âu, và điều chỉnh sự mất cân đối tài khóa và cải cách các hệ thống tài chính ở các nước phát triển. Trong khi đó, giá hàng hóa tăng cao và lạm phát tiếp tục tăng đang là vấn đề mà các nền kinh tế mới nổi phải đối mặt.
Tóm tắt nội dung: Rủi ro tín dụng tồn tại dưới nhiều hình thức, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà một trong những nguyên nhân cơ bản là việc phân bổ tín dụng không hợp lý, đánh giá không đầy đủ rủi ro của khách hàng vay, đặc biệt là khách hàng doanh nghiệp. Cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ việc tập trung tín dụng cho một nhóm đối tượng khách hàng rủi ro cao tại Mỹ từ năm 2007 là một minh chứng cho tình trạng này.
Tóm tắt nội dung: Bài báo giới thiệu bài toán tiết giảm phụ tải trong hệ thống điện khi xảy ra mất cân đối cung - cầu điện. Nguyên tắc tiết giảm hay phân bổ phụ tải trong nghiên cứu này là tuân theo thứ tự ưu tiên cung cấp điện cho các nhóm phụ tải. Thứ tự ưu tiên này được xác định bằng điểm số (score-s), điểm số càng cao, mức độ ưu tiên càng cao.
Tóm tắt nội dung: Hầu hết người dùng máy tính thường hay "kêu ca" việc máy tính chạy chậm sau một thời gian sử dụng. Nhóm thử nghiệm PCWorld Mỹ (NTN) đã "cất công" thử nghiệm để tìm ra các phương cách giúp cải thiện hiệu suất máy tính. NTN đã tiến hành kiểm tra 2 bộ máy tính trước và sau khi nâng cấp, nhằm tìm ra giải pháp nâng cấp phần cứng hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Ngoài việc nâng cấp phần cứng, NTN còn cung cấp nhiều mẹo, thủ thuật về phần mềm, mạng nhằm cải thiện hiệu suất lao động cho hệ thống như: Tăng tốc phần cứng; Cách nhận biết máy tính chạy chậm; Tăng tốc phần mềm; Tăng tốc truy cập mạng.
Tóm tắt nội dung: Báo cáo trình bày phương pháp mô hình hóa và đề xuất phương pháp điều khiển tối ưu tư thế vệ tinh nhỏ trên quỹ đạo thấp với độ dự trữ ổn định cho trước. Các vấn đề về xây dựng mô hình hệ động học, mô hình các cảm biến từ trường, mô hình mô men nhiễu môi trường vũ trụ, xây dựng thuật toán điều khiển tư thế vệ tinh với độ dự trữ ổn định cho trước được đề cập trong báo cáo. Các kết quả mô phỏng trên Matlab được phân tích và trình bày với chương trình mô tả chuyển động của tư thế vệ tinh trong không gian 3D
Tóm tắt nội dung: Ngày nay, máy tính PC kết hợp với thiết bị điều khiển khả trình PLC đang được thay thế dần dần cho các thiết bị điều khiển quá trình cũ để có thể thực hiện tự động hóa hoàn toàn một quá trình công nghệ, thực hiện tích hợp hệ thống theo quan điểm hoàn toàn hiện đại - tích hợp các mạng công nghiệp. Trên thế giới, các hãng tự động hóa lớn như Siemens, Allen Bradley. Omron...không ngừng phấn đấu để đưa ra những sản phẩm mới trong lĩnh vực này. Trên nền tảng công nghệ PC và PLC, ESLab đã nghiên cứu thiết kế thành công giải pháp hệ thống điều khiển lò ủ thép bằng khí gas ứng dụng công nghệ tự động hóa kết hợp với phần mềm điều khiển trên máy tính PC mang lại hiệu quả tối ưu cho khách hàng về chất lượng điều khiển thông minh, tiết kiệm năng lượng và giảm chi phí giá thành sản xuất.
Tóm tắt nội dung: Điện năng đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, trong đó hệ thống điện là "mạch máu" cung cấp năng lượng nuôi mọi hoạt động kinh tế xã hội, phục vụ đời sống, đảm bảo an ninh quốc phòng cho mỗi quốc gia. Điện năng từ nguồn đến nới tiêu thụ thường phải biến đổi qua nhiều cấp điện áp, do đó tổng công suất các máy biến áp thường bằng khoảng 5-7 lần tổng công suất các máy phát điện. Ở nước ta hiện nay, mặc dù điện năng phát triển với tốc độ bình quân 15%một năm nhưng nhu cầu về điện tăng khoảng 18%, do đó tình trạng cung không đủ cầu sẽ còn kéo dài